Breaking News

Bí mật 1: Triệu Cơ nhân vật phong lưu thiên cổ

BÍ MẬT HOÀNG HẬU - CUNG PHI TRUNG QUỐC

Bí mật 1

Triệu Cơ nhân vật phong lưu thiên cổ

Triệu Cơ - con gái nhà giàu ở Hàm Đan, người dẹp, múa hay. Mẹ của Tần Thủy Hoàng - là một nhân vật huyền thoại phong lưu thiên cổ. Nếu theo quan điểm của sử gia phong kiến “đối với người thân cấm kỵ, đối với người tôn kính cấm ky" thì sự tích của bà không có cách gì lưu truyền lại. Chỉ vì thời Tần chưa làm sử, sử quan thời Hán lại không kiêng kỵ việc đời Tần, lại thời gian không lâu mấy, cho nên đoạn sử có thực này mới được phản ánh lại một cách vòng vo mà trung thực từ nhiều phương diện, từ nhiều góc độ khác nhau.

Bí mật 1: Triệu Cơ nhân vật phong lưu thiên cổ


CHÍ LỚN HÀO HÙNG CỦA LÃ BẤT VI

Tần từ Tương Công có công đem binh cứu Chu đưa Chu Bình vương về Đông, dược phong chư hầu vương, hết sức mở đường khai lối, chăm lo trị nước yên thu. Đến thời Hiếu Công, theo sự ổn định của Hào Hàm (nay tại Tây Nam huyện Linh Bảo Hà Nam), ôm cả đất Ung Châu (khoảng nay vùng đất Thiểm Tây và một bộ phận Nội Mông Cổ), đối nội đổi mới làm giàu, đối ngoại mở biên chiếm đất, giữ đạo vua tôi nhòm ngó nhà Chu, có chỉ tóm bao thiên hạ gồm thâu bốn biển. Hiếu Công chết, Tần dùng chính sách “liên hoàn" và “giao hảo kẻ xa, tiến công kẻ gần" đối địch với sáu nước. Đến thời Thủy Hoàng, thế lực càng mạnh, kẻ sĩ thức thời như sao theo trăng, dùng dùng về với Tán, dâng mưu hiến kế cùng nhau hoàn thành nghiệp lớn thống nhất. Cuối thời Chiến Quốc phân tranh, lòng người đều hướng về xu thế thống nhất. Chính sách của Tán phù hợp trào lưu phát triển lịch sử, lại được các trí thức tài năng theo về giúp sức, nước giàu binh mạnh, có thể có lực, đánh đâu thắng đó, nên chẳng bao lâu đã sáng tạo ra kỳ tích chiến thắng mọi gian nan trắc trở, “chấm dứt lục vương” mà “thống nhất bốn biển”.

Nghiệp lớn thống nhất của Tân, công lao đó là do nhiều mặt, không phải sức một người, không phải công một trận. Mà trong đó công của hai nhân vật Triệu Cơ và Lã Bất Vì không thể coi nhẹ.

Lã Bất Vì người Bộc Dương nay thuộc Hà Nam, ban đầu buôn bán ở Dương Trác (nay Thị Vũ Châu Hà Nam) nhà giàu có nhiều vàng bạc, sau đến buôn bán ở kinh đô Triệu, Hàm Đan, có qua lại kinh đô Tấn, Hàm Dương. Phạm vi hoạt động của ông rộng lớn gồm cả vùng bây giờ là Sơn Đông Hà Nam Sơn Tây Thiểm Tây... theo cách nói ngày nay. ông là thương nhân mậu dịch quốc tế. Mới đến Hàm Đan, gặp Công tử Dị Nhân nước Tần làm con tin ở Triệu (Dị Nhân sau đổi tên Tử Sở, tức Trang Tương Vương, cha Tấn Thủy Hoàng) cho là “Hàng lạ có thể đầu tư, về nhà hỏi cha: “Làm ruộng lợi mấy lần ? Cha ông đáp : “Mười lần". Lại hỏi: “Buôn bán châu ngọc mấy lần ?" Cha đáp : “Trăm lần”. Lại hỏi :“Lập vua một nước được mấy lần ? Cha đáp : “Vô số”. Là Bất Vi nói : “Ngay hết sức làm ruộng, cũng không đủ nó cơm ấm áo; nay định nước lập vua, ân trạch có thể truyền đời sau, muốn đi làm việc đó." Bèn đến Hàm Đan, kết giao với Dị Nhân. Ông nhìn xa trông rộng, phân tích thế lớn trong thiên ha, biết rằng sáu nước còn lâu mới là dịch thủ của Tần, thống nhất Trung Quốc không ai khác ngoài Tán. Mà muốn thực hiện chí lớn hào hùng của mình, Dị Nhân là con chủ bài hiếm có. Đầu tư vào “hàng lạ” được lợi vô số, còn mục đích của việc đầu tư hàng lạ thì là như ông nói : “Cửa nhà ta đời lớn theo cửa nhà người".

MỘT CUỘC ĐẦU TƯ CHÍNH TRỊ

Là Bất Vi đã có quyết tâm, bàn bắt đầu cuộc đầu tư chính trị. Đi Hàm Đan, ông đem theo ngàn lạng vàng, dùng năm trăm để tài trợ, bố thí mọi việc cho Dị Nhân, làm cho Dị Nhân giao du rộng, nâng cao thanh thế và tiếng tăm để Dị Nhân có đủ tư cách kế thừa ngôi vương. Để kết giao với Dị Nhân, Lã Bất Vi không tiếc một thứ gì, ngay Triệu Cơ, người được ông yêu chiều nhất, ông cũng dứt tình nhường cho Dị Nhân. Đã muốn câu của lạ, có thể tan cửa nát nhà vì Dị Nhân, thì còn tiếc cái gì ? Hiến dâng Triệu Cơ với mục đích, một là mua chuộc Dị Nhân, làm Dị Nhân vững lòng tin tưởng, hai là sau khi việc thành, bản thân được Tần sử dụng, cũng đặt được đường dây ngầm, “trong triều có người dễ làm quan" mà. Có thể thấy ở Lã Bất Vi quyết tâm cực lớn, kiến thức sâu xa và mưu kế chu đáo nhường nào. Về sau ông làm Tướng quốc, được phong Văn Tín hầu, trợ giúp Thủy Hoàng thống nhất thiên hạ, không thể không can hệ với việc này. Còn như nói Triệu Cơ bụng có mang mà không báo, Tần Thủy Hoàng là con của Lã Bất Vi, tất cả đều là “việc của kẻ ngồi lê đôi mách”. Bởi vì thuyết này chỉ thấy trong Sử ký, mà Sử ký ghi việc thời Chiến quốc, phần lớn lấy đề tài ở Chiến quốc sách. Chiến quốc sách không ghi việc này Tư Mã Thiên làm sao mà biết được ? Vả Sử ký ghi rõ : “Đến lúc đại kỳ, sinh con Chính, Tử Sở lập Triệu Cơ làm phu nhân”, (đại kỳ là 12 tháng, Triệu Cơ có mang 12 tháng mới sinh Chính, trong lúc đã là vợ của Tử Sở nên không có gì phải nghi ngờ).

Để xoay sở cho Dị Nhân, Lã Bất Vi vừa hoạt động ở Hàm Đan, vừa mang nhiều tiền bạc băng sông vượt núi đến Hàm Dương. Trước hối lộ cho Dương Tuyền Quân, thân tín của Hoa Dương phu nhân, để nói đến tại phu nhân rằng : “Thần nghe nói, người dành được yêu chiều nhờ sắc đẹp, khi sắc đẹp phai tàn, người già ngọc ố, yêu chiều cũng nhạt phai theo. Nay phu nhân kề cận Thái tử An Quốc Quân, tuy rất được yêu chiều, nhưng không có con cái, chi bằng phu nhân hãy chọn trong các công tử một vị vừa hiền vừa có hiếu, lập làm con trưởng. Khi An Quốc Quân còn, phu nhân được tôn trọng; sau khi An Quốc Quân trăm tuổi, người con được lập sẽ làm quốc vương, phu nhân sẽ là Thái hậu, đây là một lời mà có lợi muôn đời. Không nhân dịp được yêu chiều mà sớm lo liệu, đến lúc thất sủng có muốn chọn con cũng đã muộn rồi. Hiện nay Dị Nhân rất có tiếng tăm ở Triệu, nhưng tự biết là con thứ, không thể làm trưởng, mẹ ngài lại không được yêu vì, ngài rất muốn nương tựa vào phu nhân. Nhân dịp này nếu phu nhân lập ngài làm con đích, thì phu nhân suốt đời được Tần sủng ái". Hoa Dương phu nhân cho là nói rất đúng, bèn ca ngợi trước mặt An Quốc Quân là Dị Nhân làm con tin ở Triệu rất được mọi người tán tụng, bà khóc xin lập Dị Nhân làm đích tự, được An Quốc Quân chấp nhận. Thế là Dị Nhân được làm con đích. An Quốc Quân và Hoa Dương phu nhân hậu thưởng Dị Nhân, mời Lã Bất Vi làm sư phụ. Vì Hoa Dương phu nhân là người nước Sở, Di Nhân tôn chiều theo BỞI thích của bà, đã dùng phong tục tập quán, trang sức phục trang kiểu nước Sở để hầu phụng bà. Ngay cả tên ông cũng đổi thành Tử Sở.

Năm Chiêu Vương thứ 50 (257 trước CN), Tân vây Hàm Đan, nguy cấp, Triệu muốn giết Dị Nhân, Dị Nhân bàn với Lã Bất Vi dùng 600 cân vàng hối lộ lính gác, thoát được, theo quân Tần trở về. Triệu muốn giết Triệu Cơ vợ Dị Nhân, Triệu Cơ cũng trốn thoát. Tân Chiêu Vương chết năm thứ 56, An Quốc Quân lên ngôi vương, Hoa Dương phu nhân làm hoàng hậu, Tử Sở làm Thái tử, Triều cũng đưa Tử Sở phu nhân và con là Chính về Tần. An Quốc Quân chết, Thái tử Tử Sở lên ngôi, là Trang Tương Vương tôn Hoa Dương làm Thái hậu, mẹ đẻ Hạ Cơ làm Hà Thái hậu. Trang Tương Vương năm thứ nhất (249 trước CN) dùng Lã Bất Vi làm Thừa tướng, phong Văn Tín hầu được thực ấp ở Lạc Dương Hà Nam 10 van hộ. Trang Tương Vương ở ngôi ba năm thì mất, Thái tử Chính lên ngôi Vương, tôn Lã Bất Vi làm tướng quốc, xưng hiệu “trọng phu” (cha thứ hai).

Lần đầu tư chính trị này của Lã Bất Vi đạt thắng lợi. Do ông trù liệu cẩn thận, sắp xếp chu đáo, Dị Nhân từ một con tín không ai coi ra gì, dược Hoa Dương phu nhân nhận làm con dích tự, dược lập làm Thái tử, không lâu lại bước lên ngôi vương; Triệu Cơ từ một tỳ thiếp đã trở thành phu nhân, thành Hoàng hậu, sau cùng thành Thái hậu. Còn bản thân ông từ một nhà buôn nhảy một bước lên Thừa tướng, được phong hầu, con dường làm quan rạng rỡ, thuận buồm xuôi gió.

QUAN HỆ ĐẶC BIỆT GIỮA HAI HỌ TRIỆU - LÃ

Triệu Cơ tuy dâng cho Dị Nhân, nhưng không quên tình đối với Lã Bất Vì, nhất là sau khi Trung Tương Vương mất, Thái hậu không cam chịu cô đơn nên đã tìm vui với mối tình cũ Lã Bất Vì. Lúc đó Lã Bất Vì đã nổi tiếng khắp chư hầu, uy quyền trong cả nước Tần. Thái hậu Triệu Cơ lung lạc Là Bất Vi để củng cố địa vị của con mình; để báo đền ơn tri ngộ của Lã đã làm cho bà thăng tiến vùn vụt; lại thêm vốn tính phong lưu cùng với điều kiện thuận lợi và địa vị chính trị muốn gì được nấy, cho nên bà đã mặc tình tư thông với Lã Bất Vi, hình thành một mối quan hệ đặc biệt, liên tục, thời gian khá dài.

Thủy Hoàng ngày một lớn lên mà Thái hậu với Bất Vĩ thông dâm không dứt. Bất Vi cảm thấy kéo dài kiểu đó không phải diều lành, sợ khi bại lộ tự mình mang họa, bèn hết sức tìm kế thoát thân. Họ Lã vốn túc trí đa mưu, lại chiêu tập được nhiều người tài trí, thực khách trong nhà có đến ba

ngàn, thanh thế so với Mạnh Thường Quân, Tín Lăng Quân, Bình Nguyên Quân, Xuân Thân Quân đều vượt hơn tất cả. Bốn vị Công tử tuy đều có những nhân tài xuất chúng như Phùng Huyền môn hạ Mạnh Thường Quân, Mạo Toại của Bình Nguyên Quân, Hầu Doanh của Tín Lăng Quân... nhưng nhiều nhất là những kẻ tài hèn sức mọn, ít có người viết sách lập ngôn. Còn thực khách của Lã phần lớn có tài chân chính. Sách Lã Thị Xuân Thu là kết tinh trí tuệ đám hiền tài. Danh tướng Lý Tư cũng từ môn khách Bất Vi mà ra.

Để khỏi bị Hoàng hậu quấy rầy, Lã Bất Vi nhờ riêng hoạn quan Lao Ái làm Xá nhân, khi vui chơi giải trí, dùng cây ngô đồng chế riêng một bánh xe, lệnh cho Lao Ái dùng “của quý” chuyển đi để mua vui, lại cố ý đem việc này truyền vào hậu cung khêu gợi Thái hậu. Thái hậu nghe chuyện quả nhiên đòi muốn có Lao Ái. Bất Vi bèn tặng Lao Ái cho Thái hậu. Trước tiên cho người vu tội Lao Ái, phải xử tội thiến. Lã Bất Vi lại báo riêng Thái hậu hối lộ mạnh người thi hành án để họ thiến vờ, vẫn bảo toàn thân thể. Như vậy Lao Ái đã trở thành một hoạn quan giả hiệu, ngày đêm được kề cận thân thể. Tiếng là hoạn quan, thực ra là bạn tình, mua vui hành lạc, hình bóng không rời. So với cảnh lén lút với Lã ngày trước, sợ miệng thế lắm lời thì đã vượt hơn một bậc. Thú ham thích hàng lạ của Lã Bất Vi lại chứng tỏ cao thủ ở việc xử lý Lao Ái, và ông cũng tránh được sự quấy rầy của Thái hậu, còn Lao Ái quả xứng danh là “hàng lạ”, và Thái hậu cũng vẫn thực sự là “vợ của Dị Nhân”.

LAO ÁI LÀM LOẠN

Lao Ái từ khi hầu hạ Thái hậu, do được Thái hậu sủng đi, đã thăng tiến như diều gặp gió. Năm Thủy Hoàng thứ 8 (239 trước CN) được phong Trường Tín hầu, cho đất Sơn Dương (chân núi phía đông Thái Hàng Sơn, Tây Bắc huyện Tu Vũ Hà Nam bây giờ), để ở. Nhà cửa, xe cộ, áo quần, vườn tược, săn bắn, bất kỳ việc lớn nhỏ đều do Lao Ái quyết định, lại lấy quận Thái Nguyên Hà Tây, đổi thành Lao quốc. Nhà Lao Ái có mấy ngàn đầy tớ, chư khách đến cầu cạnh phụ giúp trong nhà có hơn ngàn. Thế lực Lao Ái rất lớn.

Lao Ái nhờ Lã Bất Vi mà được yêu vì, quyền thế, nhưng dã tâm hắn quá lớn ai nghe thấy cũng phát khiếp. Hán không chỉ đối địch với Lã Bất Vị, hình thành hai tập đoàn chính trị đối lập, mà ngay cả Thủy Hoàng hắn cũng coi thường. Hắn tư thông với Thái hậu sinh được hai con, Thái hậu sợ bị phát giác, tìm cớ rời Hàm Dương dời về sống ở Ung Thành. Lao Ái thường cùng với các quan thị trung tả hữu uống rượu say, cãi lộn nhau, Lao Ái trừng mắt quát : “Ta là cha dượng của Hoàng đế, các ngươi những tiểu tử nghèo, nhỏ bé, sao dám ngồi ngang hàng với ta ?”. Các con do Thái hậu tư thông với Lao Ái sinh ra đều đem dấu đi, mưu với Thái hậu đợi Thủy Hoàng chết sẽ lập chúng làm Tần vương. Âm mưu làm loạn của hắn lộ rõ trong lời nói và việc làm." Chiến quốc sách có nói nhiều chứng cớ về sự đối lập giữa Lao với La. Rồ ràng là Lao Ái có dã tâm soán đoạt ngôi vương, nên khi bị cáo phát hắn nghĩ là phải ra tay trước, tranh thủ chủ động tiến công trước.

Thủy Hoàng năm thứ 9, có người tố cáo Lao Ái không phải là Thái giám, việc thiến là giả vở, hắn thường tư thông với Thái hậu sinh được hai trai đều bí mật nuôi sống cả, và bí mật mưu cùng Thái hậu đoạt lấy ngôi vương. Tần vương nghe được cử người điều tra, biết rõ tình thực, dang có dối sách, thì Lao Ái thấy sự việc bại lộ bèn ra tay trước; hắn trộm dùng ngự tỷ của Tần vương và ấn tỷ Thái hậu, truyền lệnh giả phát động lính huyện, lính bảo vệ, kỵ binh, các đầu lĩnh Nhung Địch, người làm trong nhà... làm loạn tiến công cung Kỳ niên. Tần vương hay tin, lệnh cho tướng quốc Xương Quốc Quân đem quân dẹp loạn, đánh nhau ở Hàm Dương giết chết mấy trăm. Lao Ái thua chạy, Tần vương ra lệnh trong cả nước: “Bắt sống được Lao Ái, thưởng tiền một triệu; giết chết thưởng nửa triệu”. Bắt được Lao Ái và đồng bọn hai mươi người đều chém đầu, riêng Lao Ái cho xe phanh thấy thị chúng, diệt hết bả họ nhà Lao Ái. Bọn người làm trong nhà, tội nặng giết chết, tội nhẹ lao dịch ba năm trở lên, chỉ riêng số người bị xóa chức tước dày di huyện Phòng Lăng Tứ Xuyên đã hơn 4000 nhà, thế lực họ Lao triệt để bị tiêu diệt. Tần vương tiếp tục tìm giết hai em, dời Thái hậu đến cung Vực Dương ở Ung Thành (nay huyện Phụng Tường Thiểm Tây) và ra lệnh : “Trước mặt ta ai dám xin tội cho Thái hậu, nhất định phải giết hắn, chặt chân tay phơi dưới cửa khuyết.

MAO TIÊU CAN GIẢN TÂN VƯƠNG

Sau khi tiêu diệt Lao Ái và thế lực họ Lao, do Thái hậu cùng mưu mô với Lao Ái nên Tần vương đã triển khai cuộc tuyệt đấu tranh với Thái hậu tiêu diệt người thân vì đại nghĩa, để củng cố địa vị thống trị của mình. Tuy không đến nỗi tình "không xuống suối vàng, quyết không thấy mặt" như Trịnh Trung công đối với mẹ Vũ Khương, nhưng cũng rất kịch liệt, không chỉ giết chết hai em, bức dời người mẹ số người xin tha cho Thái hậu mà bị giết có 27 người, nhưng cơn tức giận vẫn chưa nguôi.

Mao Tiêu, người Thương Châu nước Tề gặp Tần vương nói: “Khách Tề Mao Tiêu nguyện đến can gián Tần vương”. Tần vương sai người hỏi : “Có phải đến vì việc của Thái hậu ? Đáp: “Đúng vậy”. Tần vương nói : “Đi bảo cho hắn biết. hắn không thấy dưới cửa khuyết xác chết chất đóng sao ?. Mao Tiêu đáp : “Tôi nghe nói trên trời có 28 vì sao, nay đã có 27 người chết, tôi đến đây muốn làm cho đủ số, tôi không phải là người sợ chết". Tấn vương rất tức giận nói : “Người này cố ý vi phạm lệnh cấm của ta, mau đem bỏ hắn vào chảo dầu, không đưa xác hắn vào chân cửa khuyết”. Mao Tiêu đi vào, Tần vương bừng bừng cơn giận nắm chuôi kiếm ngồi đó, Mao Tiêu cố ý di chậm rãi, người ta giục, hắn nói : “Tôi đi đến chỗ vua thì chết, lẽ nào anh không cho tôi lưu luyến giây phút ?”. Sứ giả thương tình. Mao Tiêu biết Tần vương đang cơn giận dữ, đứng đối mặt với nhà vua, nói thẳng việc của Thái hậu thì rất khó được Tần vương tiếp nhận, chỉ tự làm khổ mình. Thế là Mao Tiêu đi đến trước mặt Tần vương, cái chào xong bèn đứng lên nói : “Tôi nghe nói, người giỏi dưỡng sinh không sợ nói đến cái chết, người có nước không sợ nói đến mất nước. Người sợ chết vị tất có thể không chết; nhà vua sợ mất nước vị tất có thể không mất nước. Sống chết tồn vong là điều mà những vị vua anh minh bức xúc muốn biết. Không hiểu Đại vương ngài có muốn biết hay chăng ? Tần vương nói : “Ngươi muốn nói gì ?* Mao Tiêu đáp : “Đại vương, ngài đang có những hành động ngông cuồng trái đạo dẫn đến mất nước, bản thân ngài không biết sao ?" Tần vương nói : “Những việc gì ? Ta muốn nghe thử. Mao Tiêu nói : “Ngài phanh thây Lao Ái, giết chết trẻ con, làm đau lòng Thái hậu, lại dời Thái hậu về cung Vực Dương, phạm tội bất hiếu: giết chết các quan đến can gián, bạo ngược như là Kiệt Trụ. Nước Tần hiện đang tiến hành nghiệp lớn thống nhất thiên hạ, những hành vi này của Đại vương, các nước chư hầu nghe thấy, e rằng họ sẽ bỏ Tần, cơ nghiệp tổ tông gây dựng sẽ hủy hoại do chính tay Đại vương. Tôi đã nói xong, bây giờ xin Đại vương giết chết tôi !” Nói xong, bèn cởi quần áo nằm xuống đất đợi chất. Tân vương rời chỗ ngồi, bước đến trước Mao Tiêu, vung tay chỉ tả hữu : “Tha cho ông ta | Bây giờ ta bằng lòng tiếp nhận lời can của người". Tức thì lập Mao Tiêu làm trọng phụ, tước vị xếp vào hàng thương khanh.

MẸ CON TẦN VƯƠNG TRỞ LẠI NHƯ CŨ

Tần vương tiếp nhận lời can của Mao Tiêu, tự mình dẫn thiên binh vạn mã, phất cờ giọng trống đến cung Vực Dương đón Thái hậu về Hàm Dương. lại ở cung Cam Tuyến. Thái hậu mừng lắm, mở tiệc rượu linh đình khoản dài Mao Tiêu Giữa tiệc Thái hậu nói: “Phản kháng hành vi không chính đáng, làm nó trở lại chân chính, việc thất bại chuyển ra thành công; làm cho nước Tần được ổn định, làm cho mẹ con ta thuận hòa như cũ, đó là nhờ sức của Mao quân”. Việc đó xảy ra vào tháng 10 năm Thủy Hoàng thứ 10, sau vụ dẹp loạn Lao Ái 1 năm 1 tháng; đồng thời với việc Thái hậu trở về Hàm Dương, Tân vương cách chức Tướng quốc của Lã Bất Vì, lệnh cho ông ta về Hà Nam với danh nghĩa Văn Tín hầu (nguyên Tấn vương muốn giết Lã Bất Vi nhưng vì ông có công to phục vụ tiên vương và có nhiều tân khách biện sĩ đến thuyết phục, nên không nở ). Như vậy, vừa cắt đứt quan hệ giữa Thái hậu với Lã Bất Vi tránh được việc trở lại giấc mơ cũ dỡ phải sinh chuyện; vừa bảo toàn danh dự và đền đáp công lao của Lã. Lại hơn một năm sau, chư hầu sứ giả, khách khứa đến nườm nượp, thăm mời Văn Tín hầu. Tần vương sợ ông làm loạn, lệnh cho dời về Thục. Lã Bất Vi biết Tần vương nghỉ mình, sợ bị giết nên uống thuốc độc tự tử. Sau đó 7 năm (Thủy Hoàng thứ 19) Thái hậu cũng mất. Cho đến khi Tần Vương Chính thống nhất Trung Quốc, xưng đế, tôn mẹ ông làm Đế Thái hậu.

Một cuộc đấu tranh chính trị xảy ra trên hai ngàn năm trước, đan xen sự giành giật nhau về tình yêu và quyền lực, cuộc đấu tranh mưu tính hại nhau vô cùng phức tạp, cuối cùng đã mất đi theo sự tiến lên của bánh xe lịch sử. Trong cuộc đấu tranh này, tuy không phải là nhân vật kinh thiên động địa, oai phong dữ dội, nhưng bà là nhân vật quan trọng làm cho tình tiết phát triển. Bà người đẹp, có lòng tốt, đã tình, buông thả, không chịu sự gò bó của lễ giáo phong kiến Cuộc đời bà nói chung là thuận buồm xuôi gió, tuy không có tài mưu lược và dã tâm như Lữ hậu, Võ Tắc Thiên, Từ Hy cũng không buông rèm tham chính, nhưng địa vị bà khá là hiển hách, không thể nói là bị áp chế, bất đắc chí. Đáng tiếc, người sau phần lớn dùng quan điểm trinh tiết, cấm dục... theo lễ giáo phong kiến để yêu cầu bà, làm cho hình ảnh của bà bị tổn thất nhất định trong con mắt mọi người.

Tổng hợp và dịch: Bùi Hữu Hồng

 

 

Không có nhận xét nào